Thiên Chúa giáo Thiên thần sa ngã

Micae tiêu diệt các thiên thần nổi loạn. Minh họa bởi Gustave Doré trong Thiên đường đã mất của John Milton.
Thiên Chúa tọa trên một ngai vàng trong vầng hào quang hình quả hạnh. Các thiên thần nổi loạn được miêu tả là đang rơi từ thiên đàng xuống địa ngục (hình dạng như một cái miệng). Các thiên thần sẽ trở thành ác quỷ khi ngã xuống.

Kinh Thánh

Phúc Âm Luca 10:18 đề cập đến "Satan từ thiên đàng rơi xuống", trong khi Phúc Âm Mátthêu nhắc tới "Quỷ vương cùng các thiên sứ của hắn" bị tống vào địa ngục. Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đều xác định Satan chính là thủ lĩnh của ác quỷ.[40] Sứ đồ Phaolô (k. 5 – k. 64 hoặc 67) có nhắc tới những thiên sứ sẽ bị phán quyết trong 1 Cô-rinh-tô 6:3, ám chỉ về sự tồn tại của những thiên thần tội lỗi.[40] 2 Phi-e-rơ 2:4 và Giu-đe 1:6 đề cập những thiên sứ đang đợi sự trừng phạt vào Ngày Phán Xét vì đã phạm tội với Thiên Chúa.[41] Sách Khải Huyền, Chương 12, miêu tả Satan là một con mãng xà lớn, "đỏ như lửa", có cái "đuôi quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất".[42] Ở câu 7–9, Satan bị Tổng lãnh thiên thần Micae cũng các thiên thần trung thành với Thiên Chúa đánh bại trong cuộc chiến tranh trên Thiên đàng: "Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là Quỷ hay Satan, kẻ chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và những thiên thần của nó cũng bị tống xuống theo nó".[43] Trong các tác phẩm Tân Ước, không có chỗ nào xác định thiên thân sa ngã là ác quỷ.[40] Tuy nhiên, bằng cách kết hợp các tham chiếu tới Satan, ác quỷ và thiên thần, các nhà chú giải Thiên Chúa giáo sơ kỳ đã đánh đồng thiên thần sa ngã với ác quỷ, mà Satan được coi là thủ lĩnh.[40][44]

Nhà thần học thế kỷ 2 Origenes và các học giả Thiên Chúa giáo khác đã đặt ra mối liên hệ giữa ngôi sao mai bị rơi được nhắc tới trong Isaia 14:12 của Cựu Ước cùng lời tuyên bố của Giê-su được chép lại trong Luca 10:18 rằng ông "đã thấy Satan như một tia chớp, từ trời sa xuống" cũng như đoạn văn nói về sự thất bại của Satan trong Sách Khải Huyền 12:8-9.[45] Xuất hiện lần đầu trong Kinh Thánh Vulgata [lower-alpha 5], từ lucifer tiếng La-tinh đã trở thành danh xưng của một thiên thần sa ngã.[46]Truyền thống Thiên Chúa giáo không chỉ liên kết Satan cùng ngôi Sao Mai trong Isaia 14:12, mà còn với lời lên án Quốc vương thành Tyros trong Sách Êzêkiel 28:11-19, người được cho là một Kêrub (tiểu thiên sứ). Các Giáo phụ Thiên Chúa giáo đã tìm thấy mối quan hệ song song cùng nhau ở hai đoạn văn này – một cách giải thích cũng được kiểm chứng trong các nguỵ thư hay các văn tự giả tạo.[47] Dù thế nào đi nữa, "không có bài bình luận Phúc Âm nào về Isaia và Êzêkiel xem Isaia 14 và Êzêkiel 28 cung cấp thông tin về sự sụp đổ của Satan".[48]

Thiên Chúa giáo sơ kỳ

Trong khoảng thời gian ngay trước khi Thiên Chúa giáo trỗi dậy, mối quan hệ giữa các Canh thức và phụ nữ phàm trần thường được coi là sự sa ngã đầu tiên của thiên thần.[49] Cho đến ít nhất là vào thế kỷ thứ ba, Thiên Chúa giáo vẫn còn gắn kết với các tác phẩm Hê-nóc.[50] Nhiều Giáo phụ, tỉ dụ như Irênê, Justinô Tử đạo, Clêmentê thành AlexandriaLactantius,[51][52] đã chấp nhận sự liên kết giữa truyền thuyết về "dòng dõi thiên thần" và đoạn văn về "những người con của Thiên Chúa" trong sách Sáng thế ký 6:1-4.[51] Tuy nhiên, một số giáo sĩ khổ hạnh, điển hình có thể kể tới Origenes (k. 184 – k. 253),[53] không đồng tình với cách giải thích này. Dựa theo các giáo phụ ủng hộ giáo lý của Origenes, những thiên thần này đã phạm tội vì dám vượt quá giới hạn bản chất của mình. Họ thèm khát được rời khỏi nơi ở trên thiên đàng để trải nghiệm nhục dục chốn trần gian.[54] Irênê đã gọi các thiên thần sa ngã là những kẻ bội giáo, những kẻ sẽ phải chịu sự trừng phạt bởi ngọn lửa bất diệt. Justinô Tử đạo (k. 100 – k. 165) đã gọi các vị thần ngoại đạo là những thiên thần sa ngã hoặc những đứa con của quỷ đang đội lốt nguỵ trang. Justinô cũng đã quy trách nhiệm cho những thiên thần sa ngã đội lốt thần ngoại giáo về những cuộc đàn áp Thiên Chúa giáo trong những thế kỷ đầu tiên.[55] Bên cạnh đó, Tertullianus và Origenes cũng gọi các thiên thần sa ngã là những thầy dạy chiêm tinh.[56]

Origenes có lẽ là người đầu tiên đồng nhất vị vua Babylon được miêu tả là "ngôi sao Mai" trong Isaia 14:1–17 cùng một thiên thần sa ngã.[57][58] Theo cách giải thích loại hình học, miêu tả này có thể được xem là cả thiên thần lẫn một vị vua phàm nhân. Hình ảnh ngôi sao Mai cũng chính vì thế mà đã được các học giả Thiên Chúa giáo thời sơ kỳ dùng cho Satan,[59][60] chuẩn theo sự đặt ngang hàng Lucifer và Satan trong những thế kỷ tiền Thiên Chúa giáo.[61]

Công giáo

Những thiên thần sa ngã trú ngụ trong Địa ngục

Vào thế kỷ thứ 3, tín hữu Cơ Đốc bắt đầu bác bỏ các tài liệu liên quan tới Hê-nóc. Những người con của Đức Chúa Trời chỉ đơn thuần được xác định là những người mộ đạo, chính trực, hay chính xác hơn là các hậu duệ của Seth, những người bị những phụ nữ là con cháu của Cain quyến rũ. Nguyên căn của cái ác cũng bị dịch chuyển từ quyền năng siêu việt của các thiên thần sang chính con người và được cho là đã xuất hiện ngay từ buổi đầu lịch sử. Một mặt là sự trục xuất Satan cùng các thiên thần của hắn và mặt khác là những tội lỗi nguyên gốc của con người.[50][62] Tuy nhiên, các tín hữu Cơ đốc giáo Syriac lại chấp thuận các giáo lý của Sách Canh Thức, vốn đánh đồng những người con của Chúa cùng các thiên thần sa ngã.[63] Đối với ngành quỷ học phương Tây và Giáo hội Công giáo thì tác phẩm Civitas Dei của Augustinô thành Hippo đã trở thành kim chỉ nam.[64] Augustinô bác bỏ các tác phẩm Hê-nóc và cho rằng khởi nguyên duy nhất của thiên thần sa ngã chính là cuộc nổi loạn của Satan.[65][66] Điều này đã dẫn tới việc các thiên thần sa ngã bị đánh đồng với ác quỷ và được mô tả như những thực thể tâm linh phi giới tính.[67] Bản chất chính xác của thân thể tâm linh của các thiên thần sa ngã đã trở thành một chủ đề tranh cãi khác trong suốt thời Trung Cổ.[64] Augustinô đã sử dụng những nhận thức của mình về các Daimon trong Thần thoại Hy Lạp cổ đại để miêu tả về ác quỷ.[64] Các Daimon được cho là các thực thể thần thánh, được tạo thành từ các vật chất thiên tiên – một khái niệm mã Augustinô cũng đã sử dụng để miêu tả các thiên thần sa ngã.[68] Tuy nhiên, những thiên thần chỉ nhận được cơ thể như vậy sau khi bị trục xuất khỏi thiên đàng.[68] Các học giả đời sau đã cố gắng giải thích những chi tiết về bản chất tâm linh của thiên thần sa ngã rằng các vật chất thiên tiên là một sự kết hợp giữa không khí và lửa, nhưng vẫn được cấu tạo từ các yếu tố vật chất.[69] Một số người khác lại phủ nhận mọi mối quan hệ với các nguyên tố vật chất. Họ miêu tả các thiên thần sa ngã là những thực thể thần thánh thuần túy. Tuy nhiên, ngay cả những người tin rằng các thiên thần sa ngã sở hữu thân thể thiên tiên cũng không tin rằng họ có thể có con cùng người trần.[70][71]

Innichen (Nam Tyrol), Nhà thờ Giáo xứ Thánh Micae: Bích họa mô tả sự sa ngã của các thiên thần nổi loạn của Christoph Anton Mayr (1760)

Trong tác phẩm Civitas Dei của mình, Augustinô miêu tả về hai thành phố khác biệt và đối lập với nhau tựa như ánh sáng và bóng tối.[72] Thành phố trần gian được tạo thành sau cuộc nổi loạn của thiên thần sa ngã, có những con người xấu xa và ác quỷ (thiên thần sa ngã) là cư dân. Ngược lại, thành phố thiên đàng là nơi cư trú của những con người lương thiện, của những thiên thần được Thiên Chúa dẫn dắt.[72] Và mặc dù cách phân chia bản thể–thành hai vương quốc khác biệt–của Augustinô cho thấy sứ tương đồng với thuyết nhị nguyên của Minh giáo, nhưng nó có sự khác biệt ở phương diện nguồn gốc và sức mạnh của cái ác. Theo Augustinô, cái ác xuất phát từ sự tự nguyện. Ông cũng luôn nhấn mạnh đến quyền tể trị của Đức Chúa Trời với các thiên thần sa ngã.[73] Cho nên, những cư dân của thành phố trần gian chỉ có thể hoạt động theo khuôn mẫu mà Thiên Chúa đã tạo ra.[66] Cuộc nổi loạn của các thiên thần cũng chính là kết quả của sự tự do chọn lựa mà Thiên Chúa ban xuống. Những thiên thần vâng phục được Thiên Chúa ban ân điển, giúp họ hiểu sâu hơn về bản chất của ngài cũng như về trật tự của vũ trụ. Được soi sáng bởi ân điển của Đức Chúa Trời, họ không còn cảm giác ham muốn tội lỗi. Những thiên thần khác vì không được Chúa ban ân điển nên vẫn còn khả năng phạm tội. Sau khi phạm tội, họ sẽ bị trục xuất khỏi thiên đàng và trở thành ác quỷ.[74] Theo quan điểm của Augustinô, thiên thần không thể phạm tội vì những ham muốn nhục dục, vì họ không có da thịt. Thay vào đó, họ có thể phạm những tội lỗi bắt nguồn từ linh hồn và trí năng như sự kiêu ngạo hay lòng đố kỵ.[75] Một khi đã phản lại Chúa, họ sẽ không còn đường quay lại.[76][77] Sách Giáo lý vấn đáp của Giáo hội Công giáo không giải thích "sự sa ngã của thiên thần" theo nghĩa đen, mà là một số thiên thần đã chối bỏ Thiên Chúa một cách cực đoan. Việc một số thiên thần tuy "tính bản thiện" khi được sinh ra, nhưng việc tự nguyện lựa chọn đi theo cái ác là không thể dung thứ. Điều này không phải vì Thiên Chúa khiếm khuyết lòng từ bi vô hạn, mà là vì phẩm chất mà những thiên thần này đã chọn là thứ không thể hủy được và được xem là một tội bất dung thứ.[78] Công giáo ngày nay bác bỏ lý thuyết Vạn vật phục hồi[lower-alpha 6] của Giáo phụ Origenes, rằng sau một thời gian tất cả các sinh vật tự do sẽ được Thiên Chúa tha thứ, thậm chí ma quỷ và những linh hồn lạc lối.[79]

Chính Thống giáo

Chính thống giáo Đông phương

Tương tự Công giáo, Chính thống giáo Đông phương cũng xem thiên thần sa ngã là những sinh linh nổi dậy chống lại Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, khác với Công giáo, Chính thống giáo không có học thuyết nào nêu rõ bản chất thực sự của thiên thần sa ngã, nhưng họ nhất trí rằng sức mạnh của thiên thần sa ngã luôn thua kém Thượng Đế. Cũng vì vậy mà niềm tin vào thiên thần sa ngã luôn có thể được đồng hóa với truyền thuyết địa phương, miễn là nó phù hợp và không phá vỡ những nguyên tắc cơ bản của Kinh thánh.[80] Trong lịch sử, một số nhà thần học thậm chí còn có xu hướng cho rằng các thiên thần sa ngã có thể được phục hồi phẩm vị trong sự sống đời sau.[81] Cũng giống các thiên thần khác, thiên thần sa ngã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của các tín đồ Chính thống giáo. Tương tự Công giáo, thiên thần sa ngã cám dỗ và xúi giục con người lầm đường lạc lối, nhưng thêm vào đó, bệnh tâm thần cũng có liên quan tới thiên thần sa ngã.[82] Những người đạt đến đẳng cấp tâm linh cao cấp thậm chí còn được cho là có thể mường tượng ra thiên thần sa ngã.[82] Những nghi lễ và bí tích của Chính thống giáo Đông phương được cho là có thể làm suy yếu ảnh hưởng của ma quỷ.[83]

Giáo hội Ethiopia

Trái ngược với đa số Giáo hội Thiên Chúa giáo khác, Giáo hội Ethiopia chấp nhận sách Hê-nóc 1 và Sách Jubilee, đồng thời xem chúng là giáo luật.[84] Cũng vì vậy cho nên Giáo hội Ethiopia tin rằng tội lỗi của con người không chỉ bắt nguồn từ tội lỗi của Adam mà còn do Satan và những thiên thần sa ngã khác gây ra. Cùng với ma quỷ, thiên thần sa ngã tiếp tục tạo nghiệp chướng và làm bại hoại trần gian.[85]

Tin Lành

Giống như Công giáo, đạo Tin lành xem thiên thần sa ngã là những thực thể tinh thần không liên quan đến xác thịt,[67] nhưng bác bỏ học thuyết thiên thần của Công giáo. Những bài thuyết giáo về các thiên thần của Martin Luther (1483–1546) chỉ đơn thuần kể lại chiến tích của các thiên thần sa ngã, mà không đề cập tới hệ thống phẩm trật của thiên thần.[86] Satan và các thiên thần sa ngã của ông ta là nguyên nhân tạo ra nhiều nghiệp chướng trên trần gian, nhưng Luther tin rằng thiên thần trung thành với Chúa luôn luôn mạnh hơn thiên thần sa ngã.[87] Nhà thần học Tin lành người Ý Girolamo Zanchi (1516–1590) đưa ra những lời giải thích sâu hơn về lý do đằng sau sự sa đọa của thiên thần. Theo Zanchi, những thiên thần đã nổi loạn khi họ nhìn thấy hóa thân của Chúa Kitô ở dạng chưa hoàn chỉnh.[67] Tuy nhiên, đã phần tín đồ theo đạo Tin lành ít quan tâm hơn đến nguyên nhân khiến thiên thần sa ngã, vì họ cho rằng chúng không hữu ích và cũng không cần thiết phải biết.[67]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thiên thần sa ngã http://jewishencyclopedia.com/articles/10177-lucif... http://jewishencyclopedia.com/view.jsp?artid=24&le... http://www.sacred-texts.com/bib/bep/bep02.htm http://perseus.uchicago.edu/cgi-bin/philologic/get... http://www.almuslih.org/Library/Reed,%20A%20-%20Fa... //dx.doi.org/10.1163%2F1573-3912_ei3_COM_23204 //dx.doi.org/10.1163%2F9789004319288_008 //dx.doi.org/10.2307%2F25765960 //dx.doi.org/10.2307%2F3266192 //www.jstor.org/stable//j.ctt1dxg867